Loạn năng khớp thái dương hàm chỉ những rối loạn liên quan đến các cơ nhai, đến khớp thái dương hàm hoặc cả hai. Nhưng vỡ biểu hiện của căn bệnh này thường khụng rừ ràng, thoáng qua, thậm chí cứ người tự nhiên khỏi, chính vì thế hầu hết mọi người không mấy quan tâm.
Đây là căn bệnh tuy không gây tử vong nhưng nếu phát hiện chậm sẽ rất khó điều trị và gây ra nhưng khó chịu, mệt mỏi cho cơ thể. Theo thống kê tại các nước phát triển cho thấy, khoảng 10% dân số mắc chứng bệnh loạn cơ thái dương hàm. Bệnh lý này ban đầu gây đau các cơ vận động hàm, sau đó gây tổn thương các khớp thái dương hàm, làm nhuyễn sụn khớp, rồi thoái hoá và có thể dẫn đến dính khớp thái dương hàm.
Loạn năng thái dương hàm là một bệnh lý rất hay gặp của bộ máy nhai, với các triệu chứng chính là đau cơ nhai, đau khớp hàm và há miệng lục cục. Tuy nhiên hiện nay khi đi khám để bệnh nhân dễ hiểu thì Bác sĩ hay chẩn đoán là viêm khớp hàm, tuy nhiên điều này lại thường làm cho bệnh nhân hiểu nhầm, nghĩ là đã viêm thì cần dùng thuốc kháng sinh, trong khi các loại thuốc kháng sinh chẳng có tác dụng gì trong điều trị bệnh này. https://phauthuathamhomom.com/phau-thuat-ham-cai-thien-cuoc-song/
Theo một nghiên cứu của Lipton (1993) thì 12,1% dân Mỹ trưởng thành có đau do LNBMN. Theo một nghiên cứu cắt ngang tình trạng LNBMN trên dân Mỹ của hiệp hội LNBMN Mỹ cho thấy 75% dân Mỹ có dấu hiệu LNBMN, trong đó 33% có triệu chứng của LNBMN và 5 - 7% cần được điều trị.
Tìm hiểu về bệnh loạn năng khớp thái dương hàm |
Nghiên cứu ở việt nam cho thấy khoảng 20% dân việt nam có biểu hiện bệnh lý này, bệnh này hay gặp ở lứa tuổi 15-45 tuổi
Loạn năng bộ máy nhai có thể tác động lên khớp thái dương hàm, ban đầu làm nhuyễn sụn khớp, sau đó là thoái hóa và có thể đi đến dính khớp. Nếu không được điều trị thì dẫn đến hư khớp, tiêu các đầu xương, gây xơ cứng khớp, làm hạn chế vận động hàm một phần hay toàn bộ. Ngoài ra LNBMN còn thường kèm theo những tổn thương ở răng, co thắt cơ nhai gây đau và những rối loạn của cơ quan lân cận.
Có 2 nhóm nguyên nhân chính gây bệnh lý này là các yếu tố tại chỗ như khớp cắn răng lệch lạc, tư thế làm việc của người bệnh không tốt, chấn thương xương hàm. hoặc các yếu tố tâm lý, toàn thân như rối loạn nội tiết, thiếu magie... https://phauthuathamhomom.com/tieu-chuan-ham-rang-dep/
Ngoài ra khoảng 20% trường hợp không tìm thấy nguyên nhân.
Nếu không được phát hiện loại bỏ nguyên nhân sớm thì ban đầu bệnh nhân sẽ có cảm giác ăn nhai mỏi, dần dần dẫn đến đau nhức các cơ nhai vùng mặt, đau khớp, há miệng lục cục, các răng mòn quá mức bình thường, hoặc đôi khi có cảm giác đau đầu, đau cổ. Chóng mặt ù tai, nghe kém mà khám tai mũi họng hoàn toàn bình thường.
Dấu hiệu đau rất dễ nhầm với các bệnh lý khác đặc biệt là các bệnh lý tai mũi họng và của hệ thần kinh trung ương, vì vậy chẩn đoán xác định phải dựa vào khám tai mũi họng và các bệnh lý gây đau đầu khác để loại trừ. Tuy nhiên nếu như bệnh nhân có tiếng kêu ở khớp hàm kết hợp với đưa hàm bị lệch sang bên thì gần như là dấu hiệu chẩn đoán chính xác bệnh lý này.
Việc điều trị loạn năng KTDH chỉ được thực hiện khi có chẩn đoán chính xác, nếu là nguyên nhân là do răng lệch lạc thì phải chỉnh lại răng, nếu là do mất răng gây giảm hiệu xuất nhai thì phải làm lại hàm giả, nếu là do tư thế sai thì phải chỉnh sửa lại tư thế, nếu là do nguyên nhân toàn thân như rối loạn hóc môn hay thiếu các yếu tố vi lượng thì ta phải bổ xung. Tóm lại việc điều trị thành công hay không phụ thuộc vào người bác sĩ tìm ra được nguyên nhân hay không, chính vì vậy người bác sĩ khám điều trị bệnh lý này không phải chỉ cần am hiểu kiến thức răng hàm mặt mà còn cần đòi hỏi kiến thức tổng quát của nhiều chuyên nghành khác nữa. https://phauthuathamhomom.com/viem-khop-thai-duong-ham-co-chua-duoc-khong/
Để phũng bệnh loạn cơ thái dương hàm cần phải có cuộc sống điều hoà, làm việc, nghỉ ngơi, ăn uống điều độ.
- Tránh suy nghĩ gây căng thẳng.
- Khi ăn nên tránh các thức ăn quá dai.
- Tăng cường tập thể dục để nâng cao sức đề kháng.
- Cuối cùng cần chú ý đến những biểu hiện như: đau mỏi hàm, há miệng kêu lục cục hoặc không há miệng được ... để kịp thời đi khám tại các cơ sở chuyên khoa.